Giới thiệu về đoạn trích Đất Nước và tác giả Nguyễn Khoa Điềm (Đất Nước là 1 đề tài thân thuộc trong thơ ca loạn lạc phòng Mĩ và Pháp. Giữa căn vườn văn học tập tràn trề hương sắc đẹp ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã bao gồm một mày mò mới mẻ và lạ mắt về
Dòng nào chưa nói đúng về nét riêng biệt, độc đáo của trích đoạn " Đất Nước "? A. Đã thể hiện đất nước đau thương mà anh hùng trong chiến tranh. B. Cảm nhận lí giải về đất nước trong cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn. C. Mang đậm tư tưởng nhân dân.
Phân tích đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa ĐiềmGợi ý A. DÀN BÀI 1. Mở bài Trong thơ thời chống Mĩ, chủ đề đất - Chia sẻ bài viết Phân tích đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm mới nhất
Đoạn trích " Đất Nước" - phần đầu chương V của trường ca- là một trong những đoạn thơ hay về đề tài tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đạiThảo luận nhóm: hãy tìm hiểu cảm hứng chủ đạo của đoạn trích " Đất Nước"?III- Cảm hứng chủ đạoĐoạn trích là sự cảm nhận sâu sắc có ý nghĩa khám phá về Đất Nước- dẫn tới tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".
Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi " con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc " Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi" Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đoạn trích "Đất nước" nằm ở phần đầu chương 5 của bản trường ca "Mặt đường khát vọng", được ông viết tại chiến khu Trị - Thiên nhòa khói lửa. Đoạn trích nói về sự thức tỉnh của tuổi trẻ sinh viên các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Và kêu gọi họ
9ymoy4G. Ngữ Văn 12 - ĐẤT NƯỚC NGUYỄN KHOA ĐIỀM - TƯ LIỆU VÀ LỜI BÌNHNgữ Văn 12 - ĐẤT NƯỚC NGUYỄN KHOA ĐIỀM - TƯ LIỆU VÀ LỜI BÌNHTôn Ngọc Minh QuânTài liệu được soạn ra nhằm giúp dễ dàng trong việc tìm kiếm tài liệu có liên quan đến các tác phẩm trong chương trình Ngữ Văn THPT, có sử dụng và tham khảo rất nhiều tư liệu trên Internet và chỉ mang tính chất tham khảo và hỗ trợ giảng dạy, mong mọi người không sử dụng cho mục đích thương mại.
Tham khảo ngay sơ đồ tư duy Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm, hệ thống kiến thức về bài thơ Đất nước ngắn gọn, dễ hiểu giúp học sinh lớp 12 học và ôn tập tốt môn Ngữ khảo sơ đồ tư duy Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm dưới đây do Đọc tài liệu biên soạn để nắm được kiến thức về tác phẩm này một cách đầy đủ và khoa học, qua đó dễ dàng tiếp thu và vận dụng làm các dạng bài tập.***Giới thiệu chung về Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ Đất nướcI. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm - Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943- Quê quán thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điềm, tỉnh Thừa Thiên-Huế trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng- Năm 1955, Nguyễn Khoa Điềm ra Bắc học tại trường học sinh miền Nam - Sau khi tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, ông về Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên thành phố, xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo, làm thơ..- Sau ngày thống nhất đất nước, ông tiếp tục hoạt động chính trị và văn nghệ ở Thừa Thiên – Huế- Năm 2000, ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, cứu nước- Tác phẩm chính Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Thơ Nguyễn Khoa Điềm, Cõi lặng- Phong cách thơ sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về đất nước, con người Việt NaII. Bài thơ Đất nước1. Hoàn cảnh ra đời- Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị - Thiên, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam về non sông, đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường dấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm Đoạn trích “Đất nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca2. Bố cục 2 phần- Phần 1 từ đầu đến “Làm nên đất nước muôn đời” Đất nước bình dị, gần gũi được cảm nhận từ nhiều phương diện của đời sống- Phần 2 còn lại Tư tưởng đất nước của nhân dân3. Giá trị nội dungĐoạn trích thể hiện những cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều phương diện lịch sử, địa lí, văn hóa... Tư tưởng trọng tâm, bao trùm toàn bộ bài thơ là tư tưởng “Đất nước của nhân dân”4. Giá trị nghệ thuật- Giọng thơ trữ tình, chính trị, cảm xúc sâu lắng, thiết tha- Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo>> Có thể bạn cần Kiến thức bài Đất nước - Nguyễn Khoa ĐiềmSơ đồ tư duy Đất nước của Nguyễn Khoa ĐiềmSơ đồ tư duy phân tích bài thơ Đất nước - Nguyễn Khoa ĐiềmLuận điểm 1 Cảm nhận về đất nước từ nhiều phương diện lịch sử, văn hóa, chiều sâu của không gian, chiều dài của thời điểm 2 Tư tưởng cốt lõi Đất nước của Nhân chi tiết Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa ĐiềmSơ đồ tư duy tư tưởng đất nước của nhân dânLuận điểm 1 Đất Nước của Nhân dân được thể hiện trong chiều dài thời gian lịch sửLuận điểm 2 Đất Nước của Nhân dân được thể hiện trong chiều rộng của không gian địa líLuận điểm 3 Đất Nước của Nhân dân được thể hiện trong chiều sâu văn hóaXem thêm Phân tích tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước Nguyễn Khoa ĐiềmSơ đồ tư duy cảm nhận 9 câu thơ đầu của bài thơ Đất nướcLuận điểm 1 Đất nước có từ bao giờ?Luận điểm 2Quá trình hình thành Đất nước?Xem thêm Cảm nhận 9 câu thơ đầu của bài thơ Đất nước****Trên đây là sơ đồ tư duy Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm do Đọc tài liệu biên soạn. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học và ôn tập môn Văn tốt hơn. Đừng quên tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 12 được cập nhật đầy đủ tại em nhé. Chúc các em luôn học tốt.
Dàn ý chi tiết và bài văn mẫu phân tích Đất nước dễ đạt điểm caoPhân tích đoạn thơ Đất Nước là tài liệu được đội ngũ giáo viên của VnDoc biên soạn chi tiết, cụ thể để các em học sinh lớp 12 hiểu, nắm rõ nội dung từng phần của bài và có bài làm mẫu để các em tham khảo, mở rộng vốn từ, các viết văn của tích Đất Nước hay nhấtDàn ý phân tích Đất nước mẫu 1Dàn ý phân tích Đất nước mẫu 2Bài mẫu phân tích Đất nướcKhái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích Đất nướcĐôi nét về tác giả Nguyễn Khoa ĐiềmĐôi nét về tác phẩm Đất nướcBản quyền tài liệu thuộc về VnDoc. Nghiêm cấm mọi hình thức sao chép nhằm mục đích thương ý phân tích Đất nước mẫu 11. Mở bàiGiới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm và dẫn dắt vào đoạn thơ Đất Thân bàia. Nguồn gốc của Đất nướcĐất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa câu chuyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa”, tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau, thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam, thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc. → Văn hóa dân gian đặc trưng của đất nước. Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.→ Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân Định nghĩa Đất nước“Anh đến trường, em tắm, hò hẹn” Đất Nước là không gian sinh hoạt gần gũi của đời sống gắn với tình yêu nơi hò hẹn của đôi lứa.“Nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” những lời tâm tình, thủ thỉ của tình yêu, không gian giàu tình cảm, gợi những câu ca dao yêu thương về nỗi nhớ.→ Cách định nghĩa độc đáo về Đất Nước Hình thức điệp và lí giải bằng hai yếu tố Đất và Nước, thể hiện sự cảm nhận Đất Nước thống nhất trên các phương diện địa lí - lịch Cách cảm nhận Đất nướcThời gian đằng đẵng, không gian mênh mông, Chim về, Rồng ở, giỗ Tổ, “ai đã khuất, bây giờ, yêu nhau, sinh con, dặn dò” Đất Nước là không gian sinh tồn của biết bao thế hệ, quá khứ cha ông, hiện tại mỗi chúng ta và tương lai con cháu sau này.→ Đất Nước được cảm nhận trên bề rộng của không gian địa lí, bề dài của lịch sử, bề dày của truyền thống văn hóa, Đất Nước được cảm nhận thống nhất giữa cái hằng ngày với cái muôn đời trong cuộc sống cộng đồng, sự hòa quyện không thể tách rời giữa nhân dân và cộng Ý thức trách nhiệm đối với Đất nướcĐất Nước có trong máu thịt mỗi con người, sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, cá nhân với cộng đồng dân tộc, giữa các thế hệ với nhau, mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. → Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm với đất nước.“Cầm tay mọi người, vẹn tròn to lớn” truyền thống yêu thương, đoàn kết, thân ái của những người Việt Nam tạo thành sức mạnh vô địch.“Con mang đất nước đi xa, tháng ngày mơ mộng” thế hệ tương lai phải có trách nhiệm đưa Đất Nước ngày càng phát triển, đi xa hơn nữa.“Máu xương, gắn bó san sẻ, hóa thân cho dang hình xứ sở, muôn đời” khẳng định Đất Nước từ trong máu thịt, là máu thịt của mỗi cá nhân do đó mỗi chúng ta phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Đất Nước.→ Mỗi con người không phải chỉ sở hữu riêng của cá nhân người đó mà còn là của chung của đất nước. Bởi mỗi người đều được thừa hưởng những di sản văn hóa, tinh thần của đất nước và được nuôi dưỡng trưởng thành trong di sản đó. Vì vậy mỗi người đều phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy nền văn hóa Tư tưởng Đất nước là của nhân dânNúi Vọng Phu, Hòn Trống Mái,Tổ Hùng Vương, Núi Bút, Non Nghiên, Hạ Long thành, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Những địa danh được cảm nhận qua những số phận, những cảnh ngộ của con người, sự hóa thân của những con người không tên tuổi như một phần máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân bao đời đã tạo nên Đất Nước này, đã ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng nghìn năm, người người, lớp lớp, con gái, con trai, không ai nhớ mặt đạt tên, giản dị và bình tâm. Những người vô danh đó đã giữ và truyền lại giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất văn minh lúa nước đã truyền lửa quanh mỗi nhà, tiếng nói, gánh theo tên làng xã, đắp đập bờ tre.→ Đất Nước là của nhân dân, những con người bình thường nhưng cần cù, chịu thương, chịu khó trong lao động nhưng lại kiên cường, bất khuất, dũng cảm trong chiến Kết bàiKhái quát lại nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa đoạn thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, đồng thời rút ra bài học và liên hệ thực ý phân tích Đất nước mẫu 21. Mở bàiGiới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và Đất Thân bài“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó…”Tác giả khẳng định một điều tất yếu “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều này thôi thúc mỗi con người muốn tìm đến nguồn cội đất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa “ngày xửa ngày xưa” gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân gian, “miếng trầu” gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau, “Tóc mẹ thì bới sau đầu” thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam, “Thương hau bằng gừng cay muối mặn” thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc. → Văn hoa dân gian đặc trưng của đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.→ Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.“Đất là nơi anh đến trường….……………………………Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”“Anh đến trường, em tắm, hò hẹn” Đất Nước là không gian sinh hoạt gần gũi của đời sống gắn với tình yêu nơi hò hẹn của đôi lứa.“Nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” những lời tâm tình, thủ thỉ của tình yêu, không gian giàu tình cảm, gợi những câu ca dao yêu thương về nỗi nhớ.→ Cách định nghĩa độc đáo về Đất Nước Hình thức điệp và lí giải bằng hai yếu tố Đất và Nước, thể hiện sự cảm nhận Đất Nước thống nhất trên các phương diện địa lí - lịch gian đằng đẵng, không gian mênh mông, Chim về, Rồng ở, giỗ Tổ Đất Nước với rừng vàng, biển bạc, giàu có với những câu chuyện cổ tích quen thuộc, truyền thống con cháu Lạc Hồng, phong tục giỗ Tổ các vua Hùng.“Ai đã khuất, bây giờ, yêu nhau, sinh con, dặn dò” Đất Nước là không gian sinh tồn của biết bao thế hệ, quá khứ cha ông, hiện tại mỗi chúng ta và tương lai con cháu sau này.→ Đất Nước được cảm nhận trên bề rộng của không gian địa lí, bề dài của lịch sử, bề dày của truyền thống văn hóa, Đất Nước được cảm nhận thống nhất giữa cái hằng ngày với cái muôn đời trong cuộc sống cộng đồng, sự hòa quyện không thể tách rời giữa nhân dân và cộng đồng.“Trong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất NướcKhi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắmKhi chúng ta cầm tay mọi ngườiĐất nước vẹn tròn, to lớn”“Anh, em, một phần Đất Nước, hài hòa, nồng thắm” Đất Nước có trong máu thịt mỗi con người, sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, cá nhân với cộng đồng dân tộc, giữa các thế hệ với nhau, mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. → Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm với đất nước.“Cầm tay mọi người, vẹn tròn to lớn” truyền thống yêu thương, đoàn kết, thân ái của những người Việt Nam tạo thành sức mạnh vô địch.“Mai này con ta lớn lênCon sẽ mang đất nước đi xaĐến những tháng ngày mơ mộngEm ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời…”“Con mang đất nước đi xa, tháng ngày mơ mộng” thế hệ tương lai phải có trách nhiệm đưa Đất Nước ngày càng phát triển, đi xa hơn nữa.“Máu xương, gắn bó san sẻ, hóa thân cho dang hình xứ sở, muôn đời” khẳng định Đất Nước từ trong máu thịt, là máu thịt của mỗi cá nhân do đó mỗi chúng ta phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Đất Nước.→ Cái tôi suy tư đầy ý thức trách nhiệm của tác giả mỗi con người không phải chỉ sở hữu riêng của cá nhân người đó mà còn là của chung của đất nước. Bởi mỗi người đều được thừa hưởng những di sản văn hóa, tinh thần của đất nước và được nuôi dưỡng trưởng thành trong di sản đó. Vì vậy mỗi người đều phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy nền văn hóa ấy.→ Cảm nhận, cái nhìn Đất Nước toàn vẹn, tổng hợp đa chiều Địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống tinh thần của dân tộc trong đời sống hằng ngày, biến cố lịch sử…“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu….………………………………………Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”“Núi Vọng Phu” địa danh nổi tiếng gắn với sự tích người vợ hóa đá chờ chồng → khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt của người phụ nữ Việt Trống Mái hai tảng đá xếp chồng lên nhau nằm trên một ngọn núi ở Sầm Sơn, Thanh Hóa → khẳng định tình cảm, sự gắn bó trong tình cảm gia đình, tình cảm vợ Hùng Vương gắn với truyền thuyết 99 con voi quây bên đền thờ các vua Hùng để phục Tổ → khẳng định niềm tự hào lịch sử vua Bút, Non Nghiên có hình cây bút và nghiên mực ở Quảng Ngãi, nói lên truyền thống hiếu học của người Việt Long thành thắng cảnh Hạ Long, một di sản thiên nhiên thế Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm sơn danh của những người có công với nước ở Nam Bộ, tự hào về truyền thống chống ngoại xâm của dân ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước.→ Những địa danh được cảm nhận qua những số phận, những cảnh ngộ của con người, sự hóa thân của những con người không tên tuổi như một phần máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân bao đời đã tạo nên Đất Nước này, đã ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông.“Em ơi emHãy nhìn rất xa….…………………………………..Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”Bốn nghìn năm, người người, lớp lớp, con gái, con trai, không ai nhớ mặt đạt tên, giản dị và bình tâm.+ Không điểm qua các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị nhưng dũng cảm, kiên cường.+ Toàn dân đông đảo, là sự hóa thân của những anh hùng vô danh đã bền bỉ đấu tranh, gầy dựng làm nên Đất Nước với bề dày lịch sử bốn nghìn năm.+ Sự khái quát sâu sắc về sự hòa nhập, sự hóa thân của con người trong phạm vi không gian và thời gian người vô danh đó đã giữ và truyền lại giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất văn minh lúa nước đã truyền lửa quanh mỗi nhà, tiếng nói, gánh theo tên làng xã, đắp đập bờ tre.+ Họ những con người vô danh, những người lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường đã làm nên Đất Nước.+ Điệp cấu trúc “họ…” gợi những con người nối tiếp nhau, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau giá trị văn hóa, văn minh tinh thần, truyền thống chống giặc ngoại Tư tưởng đất nước của nhân dân+ Đất Nước này, của nhân dân khẳng định Đất Nước của nhân dân do nhân dân làm ra.+ Ca dao, thần thoại trở về với cội nguồn dân tộc, với văn hóa dân gian, cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà độc đáo.+ Ba phương diện của truyền thống tâm hồn dân tộc• Yêu em từ thuở trong nôi thật say đắm, tha thiết trong tình yêu.• Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội quý trọng tình nghĩa.• Biết trồng tre, đi trả thù quyết liệt với kẻ thù.→ Đất Nước là của nhân dân, những con người bình thường nhưng cần cù, chịu thương, chịu khó trong lao động nhưng lại kiên cường, bất khuất, dũng cảm trong chiến đấu.→ Tư tưởng Đất Nước của nhân dân được thể hiện qua ba chiều cảm nhận về đất nước- Từ không gian địa lí- Từ thời gian lịch sử- Từ bản sắc văn Kết bàiĐoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp phần không nhỏ làm nên sự đa dạng, phong phú cho nền văn học Việt mẫu phân tích Đất nướcCon người Việt Nam ta từ xưa đến nay tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm luôn chảy trong dòng máu, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là đoạn trích Đất Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận độc đáo. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân. “Trường ca Mặt đường khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ văn của ông. Đoạn trích Đất nước thuộc chương V của bản Trường ca mang đến cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ về hình hài của Đất đầu bài thơ, tác giả lí giải về cội nguồn của Đất nước“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi….………………………………..Đất Nước có từ ngày đó…”Tác khẳng định trực tiếp rằng Đất nước này đã tồn tại từ rất lâu đời, khi mà con người mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê hương. Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã đi vào sử sách được lưu truyền đến tận bây giờ. Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Từ lời hát mẹ ru, từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn, làm ta hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và trở thành một phần kí ức tốt đẹp khiến ta không thể quên. Nhai trầu từ lâu đã trở thành một thói quen không thể thiếu của những người phụ nữ Việt Nam nhất là các bà, các mẹ và từ lâu dân gian ta đã có câu chuyện sự tích trầu cau nói về tình nghĩa con người. Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thành Gióng với hình ảnh nhổ cả luỹ tre giơ cao đánh đuổi giặc. Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà, chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mĩ tục giản dị của con người Việt Nam “Tóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”Từ ngày xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liên với mái tóc dài, được búi gọn gàng ngay sau đầu. Vẻ đẹp đó của một người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái Việt Nam mộc mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu rất riêng. Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” một cách hết sức tự nhiên, đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở trong con người như câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa Điềm còn nêu lên truyền thống lao động sản xuất của người dân Từ xa xưa, con người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo, cột giằng giữ vào nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn; từ đó hình thành nên làng, xóm và Đất nước. Ngôi nhà là mái ấm, là nơi con người “an cư lạc nghiệp” siêng năng tích góp của cải dồn thành sự phát triển đất nước. Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai sương” để nói lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các động từ “xay – giã – dần – sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao tháng ngày nắng sương vất vả gieo cấy, chăm sóc, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân vất vả nắng mưa. Thành quả ngọt ngào này không chỉ giúp dân ta có đời sống no ấm mà nó còn trở thành nền văn minh lúa nước mà khi nhắc đến người ta biết ngay đến Việt Nam; không chỉ dừng lại ở đó, nền văn minh này đã giúp cho nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thế hai thế giới và toàn cầu biết đến lúa gạo Việt tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định “Đất Nước có từ ngày đó…” Ngày đó là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt nối sau khẳng định Đất nước là của nhân dân, tác giả định nghĩa về Đất nước vô cùng độc đáo“Đất là nơi em đến trường.…………………………..Cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”Đất nước không chỉ được cảm nhận bằng không gian địa lí hay chiều dài lịch sử mà Đất nước còn được cảm nhận bằng không gian sinh hoạt vô cùng gần gũi, thân thuộc. “Đất” gắn liền với hình ảnh, hoạt động của người con trai, “nước” gắn với vẻ đẹp của người con gái nhưng hai tiếng Đất nước lại hợp thành tình yêu đôi lứa mặn mà. Đất nước cũng là nơi để họ hẹn hò, trao nhau những yêu thương mùi mẫn, những kỉ niệm, những nhớ thương, mong mỏi của thời gian xa xưa có câu “Đất lành chim đậu”, đất là nơi chim bay về làm tổ, nước là nơi con cá vùng vẫy giữa đại dương mênh mông. Ngần ấy năm lịch sử là quãng thời gian dài hình thành nên sự trù phú của thiên nhiên, làm giàu cho đất nước để từ đó Đất nước trở thành nơi con người đoàn tụ làm ăn sinh sống và làm nên truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ cùng bọc trăm trứng trở thành những thế hệ đầu tiên của đồng bào những lí giải, cảm nhận trên về Đất nước, tác giả nhắn nhủ đến những thế con người dù đi trước, dù đi sau, dù ở bất cứ thời đại, hoàn cảnh nào cũng phải nhớ về cội nguồn, biết ơn cội nguồn và nhớ về ngày giỗ tổ Hùng Vương - người đã có công gây dựng nền móng nhà nước đầu tiên để có Đất nước bây Nước được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận dựa trên bề rộng của không gian địa lí, chiều dài của lịch sử, bề dày của truyền thống văn hóa, Đất Nước thống nhất giữa cái hằng ngày với cái muôn đời trong cuộc sống cộng đồng, sự hòa quyện không thể tách rời giữa nhân dân và cộng những nhận định, lí giải Đất nước trên những phương diện khác nhau, tác giả nêu lên trách nhiệm của con người đối với Đất nước“Trong anh và em hôm nay……………………………Làm nên Đất Nước muôn đời”Đất nước dường như là một phần máu thịt của mỗi con người. Đất nước của tình yêu đôi lứa là một đất nước hài hòa, nồng thắm. Đất nước của cả dân tộc đoàn kết là đất nước vẹn tròn, to lớn có sức mạnh chống lại mọi thế lực kẻ thù. Qua đây, tác giả thể hiện niềm tin yêu của mình vào thế hệ con cháu mai sau, rồi chúng sẽ mang đất nước mình sánh vai với các cường quốc năm châu, rồi chúng sẽ phát triển đất nước này đến những tháng ngày mà hiện tại ta đang mơ mộng.“Em ơi em” - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước “Đất Nước là máu xương của mình” để từ đó, tác giả nêu lên trách nhiệm của mỗi con người với Đất nước, phải biết gắn bó và san sẻ với những mảnh đời bất hạnh, phải biết hi sinh, hóa thân để giữ vững dáng hình xứ sở để Đất nước này tồn tại muôn thơ thể hiện cái tôi suy tư đầy ý thức trách nhiệm của tác giả mỗi con người không phải chỉ sở hữu riêng của cá nhân người đó mà còn là của chung của đất nước. Bởi chúng ta đều được thừa hưởng những di sản văn hóa, tinh thần của đất nước và được nuôi dưỡng trưởng thành trong di sản đó. Vì vậy mỗi người đều phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy nền văn hóa ấy. Từ đây, ta thấy rõ hơn cách cảm nhận, cái nhìn Đất Nước toàn vẹn, tổng hợp đa chiều của Nguyễn Khoa Điềm địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống tinh thần của dân tộc trong đời sống hằng ngày, biến cố lịch sử….“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu….………………………………………Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”Nguyễn Khoa Điềm thật khéo léo và tinh tế khi đã vận dụng sáng tạo thành công chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng biệt không thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung thủy. Dù ở bất cứ nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị anh hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu truyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta có thể tự hào rằng Đất nước này là đất nước của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn kên trở thành nhân tài cho đất nước, đánh dấu công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta biết ơn, học tập và noi nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên ơn họ và tôn vinh những giá trị quý báu mà họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên đất nước này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, không vì thế mà lối sống cha ông đi vào dĩ vãng, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau này.“Em ơi emHãy nhìn rất xa….…………………………………..Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”Đến đây, Nguyễn Khoa Điềm không điểm qua các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị nhưng dũng cảm, kiên cường. Họ là những “con gái, con trai, không ai nhớ mặt đạt tên, giản dị và bình tâm” cần cù, chăm chỉ làm lụng gây dựng cuộc sống tốt đẹp. Khi nước nhà có giặc, họ lại đứng lên chiến đấu anh dũng, mạnh mẽ một lòng một dạ cùng nhau đoàn kết lấy lại độc lập dân tộc. Họ có thể là những con người vô danh, không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ là người giữ vững non sông này để có chúng ta ngày hôm nay. Không chỉ trên mặt trận chiến đấu mà họ còn là những anh hùng của đời thường. Những người vô danh đó đã giữ và truyền lại giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất văn minh lúa nước đã truyền lửa quanh mỗi nhà, tiếng nói, gánh theo tên làng xã, đắp đập be bờ. Điệp cấu trúc “họ…” đã gợi ra lớp lớp những con người nối tiếp nhau, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau giá trị văn hóa, truyền thống tốt đây, tác giả khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân Đất Nước này, của nhân dân, do nhân dân làm ra gắn với những câu ca dao, thần thoại từ lâu đời, cội nguồn dân tộc, văn hóa dân gian. Đồng thời, tác giả cũng gửi gắm những bài học quý giá anh em nên biết đoàn kết, yêu thương nhau từ thuở nằm nôi; biết quý trọng công sức những ngày gian khổ; biết nuôi ý chí mà đánh đuổi giặc ngoại xâm. Qua đây, tác giả một lần nữa khẳng định vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của thế hệ những con người Việt Nam và chất “tình” có ở khắp mọi nơi trên đất nước việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian cùng với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn của đất nước; về vẻ đẹp của một đất nước giàu văn hóa cổ truyền, đất nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹp. Đồng thời, tác giả thể hiện rõ nét tư tưởng Đất nước của nhân dân qua ba chiều cảm nhận địa lí, lịch sử và văn hóa vô cùng tinh tế, sâu năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu Đất nước đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và phát triển đất nước quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích Đất nướcĐôi nét về tác giả Nguyễn Khoa ĐiềmNguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943. Quê quán thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điềm, tỉnh Thừa Thiên - 2000, ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuậtNguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Phong cách thơ của ông có sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về đất nước, con người Việt phẩm chính Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Thơ Nguyễn Khoa Điềm, Cõi lặngĐôi nét về tác phẩm Đất nướca. Hoàn cảnh ra đờiTrường ca Mặt đường khát vọng được tác giả sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị - Thiên, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam về non sông, đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường dấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm trích “Đất nước” thuộc phần đầu chương V của trường Bố cục 2 phầnPhần 1 từ đầu đến “Làm nên đất nước muôn đời” Đất nước bình dị, gần gũi được cảm nhận từ nhiều phương diện của đời sốngPhần 2 còn lại Tư tưởng đất nước của nhân dânc. Giá trị nội dungĐoạn trích thể hiện những cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều phương diện lịch sử, địa lí, văn hóa... Tư tưởng trọng tâm, bao trùm toàn bộ bài thơ là tư tưởng “Đất nước của nhân dân”d. Giá trị nghệ thuậtGiọng thơ trữ tình, chính trị, cảm xúc sâu lắng, thiết thaChất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo-Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôiBộ đề thi thử THPT Quốc Gia đạt 8 điểm môn Văn năm 202020 đề đọc hiểu thi THPT Quốc gia môn Ngữ vănCách làm bài văn nghị luận xã hội Dạng tổng hợpMở bài và kết bài Đất nước của Nguyễn Khoa ĐiềmTrên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Phân tích đoạn thơ Đất nước hay và chất. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài viết rồi đúng không ạ? Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Lý thuyết môn Địa lí lớp 12, Trắc nghiệm Tiếng Anh 12 mới, Chuyên đề Hóa học 12, Giải bài tập Sinh học 12 mà VnDoc tổng hợp và đăng các em đạt kết quả cao trong kỳ thi của mình.
Bài văn hay , phân tích bình giảng đoạn trích Đất nước, SGK Ngữ văn lớp 12. Đề bài Cảm nhận của anh/ chị về đoạn trích Đất nước, trích Trường ca Mặt đường khát vọng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Bài văn mẫu Trong đoạn thơ trữ tình – chính luận này, Nguyễn Khoa Điềm trình bày những cảm xúc và suy tưởng về đất nước dưới dạng một lời trò chuyện tâm tình. Mạch cảm hứng và liên tưởng có vẻ tự do, phóng túng như một thứ tuỳ bút thơ, nhưng thực ra, vẫn có một hệ thống lập luận khá chặt chẽ, tập trung thể hiện đất nước trên các bình diện chủ yếu sau đầy trong chiều dài thời gian lịch sử quá khứ – hiện tại – tương lai, trong chiều rộng không gian – địa lý, và trong bề dày của vãn hoá – phong tục, lối sống, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện này được thể hiện trong sự gắn bó, thống nhất. Nhưng ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng cốt lõi cũng là quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”, đó cũng chính là hộ quy chiếu mọi xúc cảm, suy tưởng và nhờ đó mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ, đặc sắc, làm sâu sắc thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca thời kỳ chống Mỹ cứu nước. 2. Đoạn thơ Đất Nước không bắt đầu một cách trang trọng mà hết sức bình dị gần gũi Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..” mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Đất nước là những gì có thể bắt gặp ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình,mỗi con người câu chuyện cổ tích của mẹ kể, miếng trầu của bà, hạt gạo của ta ăn, ngôi nhà ta ở. Để nói về lịch sử trường tồn của đất nước, nhà thơ đã không bắt đầu bằng việc đưa ra các sử liệu, mà bằng những gì rất gần gũi, quen thuộc trong đời sống của nhân dân, dược gợi ra từ những chất liệu của văn hoá dân gian, của ca dao, tục ngữ. Những câu thơ mở đầu gợi nhớ đến những truyền thuyết và cổ tích vào loại xa xưa nhất của dân tộc truyện Trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng, nền văn minh lúa nước đã hình thành từ thời Âu Lạc xa xưa và những tập quán phong tục lâu đời “Tóc mẹ thì bới sau đầu”. Đó chính là sự cảm nhận vẻ chiều sâu lịch sử của đất nước thể hiện ngay trong đời sống hằng ngày của nhân dó lá sự cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất của các phương diện địa lý và lịch sử, không gian và thời gian. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Chúng ta biết là ở nhiều ngôn ngữ, từ đất nước thường dược cấu hành từ nhũng tù gốc là nơi sinh ; quê hương, quê cha. Ở đây, cách “chiết tự” này có thể gợi ra ,một cách quan niệm mang nhũng đặc điểm riêng của dân lộc về khái niệm đất nước mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh. Đất nước trường tồn trong không gian và thời gian “Thời gian đằng đẵng – Không gian mênh mông”. Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ Con Rồng cháu Tiên, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, đó là chiều dài lịch sử của đất nước. Về khổng gian địa lý, đất nước là núi sông, rừng và bể “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “con cá ngư ổng móng nước biến khơi”. Đất nước còn là cái không gian sinh tồn gần gũi với cuộc sống của mổi người “Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm – Đất Nước là nơi ta hò hẹn…”. Và tựu trung, đất nước trường tồn là ở con người truyền qua các thế hệ “Nhũng ai đi khuất – Những ai bây giờ – Yêu nhau và sinh con đẻ cái – Gánh vác phần người đi trước đế lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau”. Trên chiều rộng của không gian địa lý và chiều dài của thời gian lịch sử, đất nước được thể hiện hiện lập trung trong các bình diện văn hoá – phong lục, truyền thống tinh thần của dân lộc, trong đời sống hằng ngày và trong những biến cố lịch sử. trong đời sống của mỗi cá nhân và trong cuộc sống của cả cộng đồng. Đây chính là cái nhìn toàn vẹn tổng hợp nhiều chiều của nhà thơ về đát nước. Mạch thơ dẫn đến những suy ngẫm về trách nhiệm của mỗi con người với đất nước , đây là cái đích , đồng thời cũng là điểm hôi tụ những cảm nhận về đất nước trong phần một của đoạn thơ. Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ra cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời.. Lời nhắn nhủ thế hệ trẻ về trách nhiệm với đất nước không mang giọng “giáo huấn” mà như một lời tâm sự, tự nhủ chân thành từ đáy lòng nhà thơ. Tư tưởng cơ bản trong phần thứ hai của đoạn Đất Nước là quan niệm Đất Nước của Nhân dân. Thực ra, tư tưởng này đã thấm nhuần ở ngay phần đầu, nhưng được khơi sâu, phát triển thêm nhiều bình diện và làm nổi bật lên trong phần hai của đoạn thơ. Trở lại với bình điện không gian địa lý, nhà thơ góp một cách phát hiện mới và độc đáo về những thẳng cảnh thiên nhiên của đất nước đoạn từ “Những người vợ nhớ chồng…” đến “Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”. Những cảnh quan kỳ thú của non sông gấm vóc núi Vọng Phu, đảo con cóc, con gà ở vịnh Hạ Long, hòn Trống Mải, núi Bút non Nghiên,… không chỉ là tặng vật của tạo hoá, thiên nhiên, mà đã gắn liền với cuộc sống con người; nó chỉ trở thành thắng cảnh qua sự cảm nhận của tâm hồn dân tộc, nên đã gắn liền với lịch sử dân tộc. Trong kho tàng văn học dân gian, có rất nhiều truyện cổ tích và câu ca dao gắn liền với những thắng cảnh thiên nhiên. Nếu không có những người vợ mòn mỏi trông đợi chồng qua những cuộc chiến tranh và ly tán thì cũng không thể có sự tích về những núi Vọng Phu ở nhiều nơi trên đất nước ta ; nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dụng nước thì cũng không thể có cách cảm nhận đốc đáo về vẻ hùng vĩ của vùng đồi núi Phong Châu “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”. Điều đặc sắc là ở đây, cái nhìn của nhà thơ thấm sâu ý thức về nhân dân, về những con người bình thường đã góp phần mình làm nên đất nước người vợ nhớ chồng, cập vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo. Và cũng không chỉ ở những thắng cảnh mà ở khắp mọi nơi đều có sự góp phần tạo dựng của những người dân bình thường Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Và tác giả dẫn tới một khái quát sâu sắc Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta… Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà trước hết nhắc đến vô vàn những lớp người vô danh bình dị Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Những con người vô danh và bình dị đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của dân tộc từ hạt lúa, ngọn iửa đến tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cho đến cả tên làng,… Họ cũng là những người khi “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm – Có nội thù thì vùng lên đánh bại”. Mạch suy tưởng của tác giả dẫn đến tư tưởng trung tâm của đoạn thơ, cũng là hội tụ mọi xúc cảm của nhà thơ “Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân”. Và một cách tự nhiên, nhà thơ lại trở về với cội nguồn phọng phú, đẹp đẽ là văn hoá dân gian. Câu thơ với hai vế song song, đồng đẳng “Đất Nước Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”, là một cách định nghĩa về đất nước, thật giản dị mà độc đáo. Bởi vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống tinh thần của nhân dân, hơn ở đâu hết, có thể tìm thấy ở văn hoá dân gian, mà tiêu biểu là ở trong ca dao, dân ca, cổ tích, thần thoại,… Trong kho tàng phong phú của ca dao Việt Nam, ở đây, tác giả chọn ba câu để nói về những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, tâm hồn dân tộc Việt Nam thật say đắm thiết tha trong tình yêu “yêu em từ thuở trong nôi”, quý trọng tình nghĩa “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù “Biết trồng tre đợi ngày thành trả thù mà không sợ dài lâu.. Còn vẻ đẹp thơ mộng của núi sông Đất nước thì như được kết đọng trong những câu dân ca, nhất là dân ca trên sông nước, hay cũng có thể nói chính tâm hồn giàu chất thơ của dân tộc ta đã hoà nhập, soi bóng cùng vẻ đẹp của núi sông rất nên thơ “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát – Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác – Gợi tăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” thực ra đã hình thành từ trong lịch sử dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc ta. Nhưng chỉ đến thời kỳ hiện đại, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dận Pháp và chống đế quốc Mỹ, tư tưởng ấy mới được nhận thức sâu sắc hơn bởi quan niệm duy vật về lịch sử và đo vai trò to lớn, những hi sinh và đóng góp vô tận của nhân dân trong hai cuộc chiến tranh lâu dài và cực kỳ ác liệt. Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám, nhất là trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ, đã được sáng tạo dứới ánh sáng của tư tưởng nhân dân va cảm hứng về đât nứơc mang tính dân chủ sâu sắc Cũng trong chiều hướng tư tưởng chung của thời đại mình, các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã có những phát hiện làm sâu sắc thêm tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, qua sự trải nghiệm củà chính mình, cùng chia sẻ những gian lao, hy sinh của nhân dân, và được sự chở che, đùm bọc của nhân dân. Các bài thơ của Nguyễn Duy Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, của Phạm Tiến Duật Lửa đèn, những trường ca của Thanh Thảo Những người đi tới biển, Hữu Thỉnh Đường tới thành phô,… đều tập trung thể hiện hình ảnh nhân dân. Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một thành công trong dòng thơ về đất nước của thơ ca thời kỳ chống Mỹ cứu nước, làm sâu sắc thêm tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” của thời đại ấy. Đây là đoạn thơ trữ tình – chính luận. Cũng như toàn bộ trường ca Mặt đường khát vọng, đoạn thơ kết hợp được xúc cảm và suy nghĩ, chính luận và trữ tình. Tuy có lúc còn dàn trải, trùng lặp, thiếu cô đọng hoặc chính luận có khi còn lấn át xúc cảm, nhưng những thành công đặc sắc của đoạn thơ này là rất rõ, không chỉ ở nội dung tư tưởng mà còn cả ở những sáng tạo trong nghệ thuật thơ, trong việc sử dụng thi liệu sáng tạo hình ảnh. Tác giả đã sử dụng rộng rãi và sáng tạo các chất liệu của văn hoá dân gian – từ ca dao, tục ngữ, truyền thuyết và truyện cổ tích đến phong tục và sinh hoạt hằng ngày. Điều đó tạo cho đoạn thơ một không gian nghệ thuật riêng, mở ra một thế giới nghệ thuật hết sức quen thuộc, gần gũi mà lại mỹ lệ, bay bổng của văn hoá dân gian, kết tinh tâm hồn, trí tuệ nhân dân. Việc vận dụng văn hoá dân giạn ở đây không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật, mà là sự thấm sâu của quan niệm “Đất Nước của Nhân dân” vào trong tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo của nhà thơ. Nguyễn Văn Long Xem thêm Phân tích đoạn trích, tư tưởng đất nước của nhân dân, những cảm nhận mới mẻ về đất nước, những đề thi và bài văn hay về đoạn trích Đất nước Nguyễn Khoa Điềm Đất nước Nguyễn Khoa Điềm Đất nước nguyễn khoa điềm
đoạn trích đất nước